Lịch sử giống Gà Onagadori

Vào thời Edo giống gà Onagadori ra đời. Nguồn gốc giống gà Onagadori là giống gà "Shokoku" (小国 tiểu quốc), trọng lượng gà mái shokoku khoảng 1,5 kg và nặng hơn "tosajidori" và "uzurao", hai giống gà phổ biến khác ở tỉnh Kochi (trọng lượng gà mái khoảng 0,8 kg). Vào thời Taiso, gà với kích thước như vậy cần nhiều cỏ và nguồn thức ăn giàu đạm như cám gạo, chạch, cá giếc, ếch, côn trùng (cào cào, châu chấu), giun đất và ấu trùng chuồn chuồn. Những giống gà như "tomaru" và "gà Chabo" nhập khẩu từ các nước láng giềng vùng Đông Nam Á vào đầu thời Edo, được cải thiện ở Nhật và du nhập vào Kochi thông qua các nhà lai tạo.

Sự đa dạng của các giống gà tập trung vào một vùng nhất định như vậy góp phần vào sự phát triển thành công của giống gà Onagadori. Giống gà Onagadori trở nên hoàn thiện vào thời Đại Chánh (Taiso, 1912 – 1926). Là giống gà cao quý được bảo vệ bởi chính quyền Nhật Bản trong nhiều năm trời và được coi như là có vai trò quan trọng trong văn hóa Nhật Bản. Giống gà onagadori và giống gà phượng hoàng phoenix do phương Tây lai tạo, có quan hệ nhưng không phải là một.

Đợt nhập khẩu gà đuôi dài đầu tiên vào châu Âu là gà "onagadori gốc" không thay lông (non-moulting) với những cá thể đuôi dài được nhập khẩu rải rác vào châu Âu từ những năm 1800. Gà onagadori được nhập khẩu rải rác trong hơn hai trăm năm qua với nhiều cấp độ chất lượng khác nhau. Đợt nhập khẩu đầu tiên vào châu Âu bắt đầu từ những năm 1800, rồi sau đó vào các năm 1970, 1980 và 1990. Ở châu Âu có một đợt nhập khẩu ở miền nam nước Đức vào những năm 1970 với gần 40.000 euro chi phí.

Đợt nhập khẩu vào Mỹ diễn ra trong giai đoạn 1930-1940, và sau đó vào những năm 1960 cho một xưởng làm mồi câu giả (fly-tying) ở New Jersey, nơi mà từ đó lan ra toàn nước Mỹ dưới tên gọi "phoenix–onagadori." Với những dòng gà ở Mỹ, chỉ những phát hiện gần đây về đặc điểm di truyền tương tự như bộ lông của gà onagadori mới khiến các nhà lai tạo bắt đầu tái tuyển chọn đặc điểm không thay lông ở gà trống tơ 3-5 năm tuổi. Nhiều dòng gà, thậm chí cả dòng thuần, cũng bị mất gien không thay lông đặc trưng, điều giúp chúng khác biệt với những giống gà còn lại.